Một đàn ong đang bàn bạc giữa không trung. Không tiếng nói, không người đứng đầu, chỉ những cú rung người và các vòng bay xoáy quanh một ý tưởng chung. Từ xa là một đám mây vàng óng. Lại gần là một bộ não đang suy nghĩ.
Khi tổ cũ chật chội, đàn phải dọn nhà. Nữ hoàng được đưa theo để sinh tồn, chứ không để chỉ huy. Việc chọn nơi ở mới do những con ong thợ nhiều kinh nghiệm đảm nhiệm. Chúng tản ra bốn phía và bắt đầu tìm.
Khoảng 5 phần trăm số ong trong đàn đóng vai trò do thám. Với một bầy đi khoảng 10.000 đến 20.000 cá thể, bạn có vài trăm trinh sát. Mỗi con tìm thấy một khoang cây hứa hẹn sẽ bay về và nhảy. Điệu nhảy của ong là một bản đồ nén bằng cơ thể. Góc nhảy so với mặt trời chỉ hướng. Độ dài vũ điệu gợi khoảng cách. Độ hăng say tiết lộ chất lượng.
Khán giả không tin vội. Chúng bay đến kiểm chứng. Nếu đồng ý, chúng cũng nhảy theo hướng đó, khiến thông điệp mạnh lên. Nếu thấy dở, chúng im lặng để tín hiệu tự yếu đi. Vài vòng như vậy, một vị trí bắt đầu vượt lên hẳn. Nhìn ở tầng sâu, đó là một mạng tín hiệu kích thích và ức chế đang tự tổ chức.
Khi một nơi đủ tốt, cường độ ủng hộ tăng nhanh. Các nghiên cứu hiện trường cho thấy khi có khoảng 15 đến 20 con ong ủng hộ đồng thời cho cùng một vị trí, bầy đạt ngưỡng quyết định. Không ai hô khẩu lệnh. Quyết định bật ra như một suy nghĩ vừa thành hình.

Cũng có lúc bầy do dự. Hai nơi gần như ngang nhau, hai nhóm nhảy song song, và đám mây ong kéo dài. Lúc ấy xuất hiện một tín hiệu nhỏ xíu gọi là stop signal. Một con ong dùng đầu húc nhẹ vào con đang nhảy và rung lên trong tích tắc. Cử chỉ này làm gián đoạn điệu nhảy của đối phương, khiến thông điệp suy yếu. Khi cạnh tranh gay gắt, số lần phát stop signal tăng ở cả hai phía, giống như ức chế chéo trong não giúp hệ thần kinh thoát khỏi thế hòa.
Thomas D. Seeley và cộng sự đã theo dõi hàng chục đàn như vậy trong rừng đảo Appledore và nhiều khu vực khác. Họ ghi nhận nhịp độ ra quyết định vừa nhanh vừa chuẩn. Phần lớn đàn chốt xong trong vài giờ đến dưới một ngày. Tỷ lệ sai sót thấp vì tiêu chí chọn chỗ khá khắt khe. Ong ưa khoang tổ khô, cao vài mét, cửa nhỏ để phòng kẻ thù, và thể tích gần 40 lít để duy trì nhiệt và chỗ nuôi con. Không cá thể nào tính toán hết các biến số. Tập thể thì lại tính.
Tổ ong vì thế được gọi là siêu sinh vật. Nhiệt độ trong tổ được giữ quanh 35 độ C để nuôi ấu trùng. Lao động được phân công theo tuổi và nhu cầu. Khi có kẻ lạ, đội gác cửa được tăng cường. Khi trời mưa, cường độ tìm mật giảm. Không có bản kế hoạch tổng quát nào treo trên tường sáp. Chỉ là vô số quy tắc cục bộ lặp đi lặp lại, tạo thành hành vi toàn cục có trật tự.
Điều đáng chú ý là trí tuệ tập thể không đồng nghĩa với hoàn hảo. Nếu bị đặt vào tình huống cực đoan, như hai khoang tổ chất lượng tương đương đặt sát nhau, bầy có thể chọn chậm hoặc chọn nhầm. Tuy vậy, nhờ ức chế chéo và ngưỡng quyết định, xác suất sai sót giảm đáng kể. Bầy ong vẫn giải tốt bài toán ba mục tiêu: nhanh, chính xác và nhất trí. Sự cân bằng này là thứ nhiều nhóm người còn chật vật.
Từ góc nhìn của chúng ta, mỗi con ong là một nơ ron biết bay. Nó đem về một mẩu thông tin nhỏ, chia sẻ bằng ngôn ngữ cơ thể, ủng hộ hoặc ngăn cản, rồi rời đi. Tầng trên của thế giới – nơi có ý chí tập thể – mọc lên từ tầng dưới của những quy tắc đơn giản. Bộ não sinh học của ta cũng làm vậy, khác ở chỗ nơ ron nằm trong sọ, còn nơ ron của ong thì đang vẽ bản đồ giữa không trung.
Những nguyên lý này đã được con người mô phỏng. Thuật toán bầy đàn, tối ưu kiến, hệ đa tác tử và các mô hình AI phân tán đều học từ cách ong ra quyết định. Không cần trung tâm chỉ huy, hệ thống vẫn thông minh, bền vững và tiết kiệm năng lượng. Tự nhiên đã thử nghiệm bản thiết kế này từ hàng chục triệu năm. Chúng ta mới học được đôi phần.
Điểm mù phổ biến của con người là luôn đi tìm một người lãnh đạo cho mọi hệ thống phức tạp. Tổ ong nhắc ta rằng có những trí tuệ không thuộc về ai. Chúng nằm trong khoảng giữa những cái đầu nhỏ, trong các cú húc nhẹ làm một điệu nhảy dừng lại, trong ngưỡng mờ khi đám mây ong cùng hiểu đã đến lúc bay. Hóa ra, suy nghĩ cũng có thể bay.